Đầu tư định cư Mỹ – Xin trợ cấp thất nghiệp có được xem là “lạm dụng an sinh xã hội Mỹ” không?

0
692
xin tro cap o my
xin tro cap o my

Theo hướng dẫn tại các trang web chính phủ từng bang, việc xin trợ cấp thất nghiệp và nhận trợ cấp thất nghiệp, sẽ không được xem là “gánh nặng xã hội” và không ảnh hưởng đến các hồ sơ xin xóa điều kiện thẻ xanh (hồ sơ I-829, diện EB-5) sau này. Những người nhập cư làm việc hợp pháp tại Mỹ đủ điều kiện nhận trợ cấp thất nghiệp nếu bị buộc thôi việc và lý do thôi việc không phải vì lỗi của họ. Theo luật mới về gánh nặng xã hội và Cẩm nang Hướng dẫn các chính sách của USCIS, trợ cấp thất nghiệp không nằm trong danh sách các phúc lợi thuộc diện “gánh nặng xã hội”.

Theo Mục 212(a)(4) của Đạo luật Di trú và Quốc tịch (INA), Mỹ sẽ từ chối các cá nhân muốn nhập cư hoặc điều chỉnh trạng thái thường trú (thẻ xanh) nếu cá nhân đó vào thời điểm nộp hồ sơ nhập cư hoặc điều chỉnh tình trạng thường trú, có khả năng trở thành “gánh nặng xã hội”. Nếu không được chấp thuận, cá nhân đó sẽ không được nhập cư Mỹ hoặc điều chỉnh tình trạng thường trú.

Tìm hiểu thêm: Tổng quan các trợ cấp giáo dục ở Mỹ cho học sinh, sinh viên

Trợ cấp thất nghiệp thường không được tính là “gánh nặng xã hội”

Trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp thường không được USCIS xem là khoản phúc lợi thuộc diện “gánh nặng xã hội” của Mỹ. USCIS đã giải thích rõ trong luật mới:

Bộ An ninh nội địa Mỹ (DHS) không coi người về hưu của liên bang và tiểu bang, trợ cấp hưu trí, khuyết tật, giáo dục sau trung học và trợ cấp thất nghiệp là “gánh nặng xã hội”. Vì công dân có được những phúc lợi này thông qua thời gian đi làm và các khoản khấu trừ thuế cụ thể từ khoản tiền lương họ nhận được”.

Ngoài ra, Cẩm nang Hướng dẫn các chính sách của USCIS nêu rõ, trợ cấp thất nghiệp không được USCIS xem là “gánh nặng xã hội”. Vì bảo hiểm thất nghiệp được xem là “khoản phúc lợi do chính người lao động tích lũy được” trong quá trình làm việc và đóng thuế theo luật, trước đó.

Dựa trên định nghĩa được nêu trong luật “gánh nặng xã hội” mới và Cẩm nang hướng dẫn của USCIS, yêu cầu trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp (nếu không đủ điều kiện) sẽ không được xác định là “gánh nặng xã hội”. Chương trình bảo hiểm trợ cấp thất nghiệp được quản lý bởi các tiểu bang. Tiểu bang sẽ thu phí chi trả bảo hiểm thất nghiệp ban đầu (thường là 26 tuần). Sau giai đoạn này, Chính phủ liên bang sẽ trả phí bảo hiểm thất nghiệp đến một số tuần tối đa nhất định.

Điều kiện tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ thay đổi tùy theo tiểu bang. Các khoản trợ cấp được chính quyền chi trả (trong 26 tuần đầu tiên) hoặc bởi Chính phủ liên bang (sau đó) cũng tùy thuộc vào tiểu bang.

Tuy nhiên, cần lưu ý việc cá nhân bị mất việc có thể tạo ra các yếu tố cân nhắc tiêu cực trong quá trình phân tích “gánh nặng xã hội”. Ví dụ, nhiều người lao động có được bảo hiểm y tế nhờ đi làm và không có bảo hiểm y tế riêng dựa trên tình trạng sức khỏe là một yếu tố tiêu cực khi xem xét “gánh nặng xã hội”.

Chính sách an sinh xã hội của Mỹ từ trước đến nay vẫn rất rõ ràng và công bằng. Ngoài ra, với việc thông qua gói cứu trợ lên đến 2.000 tỷ USD, Mỹ vẫn là quốc gia đi đầu trong chính sách hỗ trợ công dân và thường trú nhân.

Tuy nhiên, Mỹ cũng đưa ra chính sách và quy định cụ thể về những quyền lợi, mà nếu không phải là công dân hay thường trú nhân hợp pháp tại Mỹ, lạm dụng các quyền lợi này, trong khi không có đóng góp gì cho Mỹ (ví dụ: rời Mỹ quá 6 tháng/năm, không khai báo thuế, không có việc làm, không đầu tư tạo việc làm tại Mỹ…) thì người đó có thể sẽ bị xem xét lại về tình trạng cư trú.

Tìm hiểu thêm: Tổng quan chính sách Trợ cấp người thất nghiệp ở Mỹ

dautumy.vn

 

 

Bình luận đã bị đóng.