Chạy đua với lạm phát, tỷ lệ người dân Mỹ đổi việc để tìm cơ hội mới lương tốt hơn đang ở mức cao lịch sử.
Dain Laguna, 37 tuổi, từng làm ở phòng nhân sự một công ty sửa chữa nhà cửa vào năm ngoái. Anh cảm thấy bị đánh giá thấp với mức lương 19 USD mỗi giờ trong khi lạm phát dần “ăn mòn” túi tiền.
Giá thực phẩm hữu cơ tươi – thứ mà anh thích cho con ăn – đã trở thành một khoản căng thẳng về tài chính. “Tôi là cha của hai đứa trẻ và tôi không thể làm việc chỉ với lương thấp như vậy. Mọi thứ ngày nay rất đắt đỏ”, anh nói.
Dain Laguna bắt đầu nộp đơn xin việc vào mùa thu năm ngoái. Anh nhận được việc mới vào tháng 2. Tuy nhiên, các nhà tuyển dụng vẫn liên hệ với anh để chào mời công việc mới, vì ngành nhân sự đang có nhu cầu tuyển người cao.
Tìm hiểu thêm: Lạm phát cao nhất 40 năm bủa vây người Mỹ
Đổi công việc mới có mức lương tốt hơn
Hiện Laguna kiếm được 28 USD một giờ, cao hơn khoảng 50% so với việc cũ. “Tôi vẫn không kiếm đủ so với nhu cầu nhưng không cảm thấy mình sắp chết đuối nữa”, anh nói.
Một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew được công bố vào tháng 3 cho biết, khoảng 2,9% lao động Mỹ bỏ việc trong tháng 2 – cao hơn nhiều so với tỷ lệ 2,3% trước đại dịch (tức tháng 2/2020). Điều này là do lao động đang tự tin vào triển vọng việc làm.
Trong khi đó, cuộc khảo sát của hãng tuyển dụng ZipRecruiter cho biết, khoảng 20% người lao động Mỹ ở độ tuổi từ 25 đến 54 tuổi dự định nghỉ việc trong vòng một năm. 26% khác cho biết sẽ duy trì công việc hiện tại từ một đến hai năm.
Chuyển đổi công việc là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng tiền lương, vốn đã diễn ra mạnh mẽ khi nền kinh tế phục hồi sau đại dịch. Các nhà kinh tế cho biết những người lao động thay đổi công việc thường yêu cầu tăng lương nhiều hơn. Và người sử dụng lao động cũng tăng lương để giữ chân nhân sự.
Mức tỷ lệ tăng lương khi chuyển đổi công việc
Khoảng 64% người đã chuyển việc cho biết công việc hiện tại được trả nhiều hơn so với công việc trước. Trong số này, gần một nửa được tăng lương từ 11% trở lên. Đặc biệt, gần 9% kiếm được nhiều hơn ít nhất 50%.
Theo dữ liệu của Cục dự trữ Liên bang Mỹ – Fed, chi nhánh Atlanta, tăng trưởng tiền lương của lao động nước này đạt 6% vào tháng 3 (cùng kỳ năm ngoái tăng 3,4%). Con số này cũng cao hơn mức 3,7% vào tháng 2/2020 – thời điểm trước đại dịch – khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất trong 50 năm.
Riêng với lương của người chuyển việc thì tăng trưởng 7,1% vào tháng 3 (cùng kỳ năm ngoái tăng 4%), đây là tốc độ tăng nhanh nhất kể từ khi bắt đầu khảo sát năm 1997. Những áp lực đó đang chuyển sang tất cả những bên khác, khi các nhà tuyển dụng cạnh tranh để giữ nhân viên. Theo đó, tăng trưởng tiền lương cho những người ở lại làm việc cũng tăng 5,3% trong tháng 3.
Sự cạnh tranh gay gắt về tuyển dụng ở các công ty
“Thời điểm mà một nhà tuyển dụng sợ rằng mọi người sẽ rời đi, họ sẽ tăng lương cho tất cả mọi người. Vì vậy, tỷ lệ tăng lương cho những người ở lại thấp hơn, nhưng nó vẫn là mức tăng lớn”, Guy Berger, Nhà kinh tế trưởng của LinkedIn, nhận xét.
Theo khảo sát của ZipRecruiter, khoảng 37% người được hỏi cho biết có công việc mới gần đây và gần 22% nhận được tiền thưởng khi ký hợp đồng.”Các công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về khan hiếm nhân tài nên phải tăng lương, nới lỏng các yêu cầu công việc, mở rộng phúc lợi và đưa ra các điều kiện tuyển dụng thuận lợi hơn”, Julia Pollak, Nhà kinh tế trưởng tại ZipRecruiter nói.
Tăng lương khiến tỷ lệ lạm phát tăng cao
Theo Bộ Lao động Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 8,5% trong tháng 3, mạnh nhất kể từ năm 1981. Việc mở rộng mức tăng lương trong toàn nền kinh tế có thể khiến lạm phát ở mức cao trong những quý tới, ngay cả khi các động lực như gián đoạn chuỗi cung ứng và khủng hoảng năng lượng suy giảm.
“Thật tuyệt khi được tăng lương nhưng sẽ không tốt nếu nó đang đẩy lạm phát lên cao hơn nữa”, Diane Swonk, Nhà kinh tế trưởng tại Grant Thornton, đánh giá.
Gần 27% các nhà kinh tế được Wall Street Journal khảo sát vào tháng 4 cho biết, tăng trưởng tiền lương gây ra rủi ro lạm phát lớn nhất trong năm nay, cao hơn so với những người cho rằng khủng hoảng Ukraine và gián đoạn chuỗi cung ứng là những mối đe dọa chính.
Các công ty đang phải trả nhiều tiền hơn để thu hút và giữ chân người lao động trong một thị trường cạnh tranh và sẽ cần tăng giá để bù đắp lại, theo các chuyên gia. Động thái này đặt ra thách thức đối với Fed. Vào tháng 3, cơ quan này đã bắt đầu tăng lãi suất lần đầu kể từ năm 2018. Ngân hàng trung ương đang cố gắng hạ lạm phát từ mức cao nhất trong 4 thập kỷ xuống gần mục tiêu 2%.
Tìm hiểu thêm: Fed tăng lãi suất lần đầu tiên kể từ năm 2018
Khảo sát của về thị trường lao động của các chuyên gia
Những năm sau cuộc suy thoái 2007-2009, tăng trưởng tiền lương yếu ngay cả khi tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp trong lịch sử. Một số nhà kinh tế cho rằng đó là do người lao động ngại chuyển đổi công việc. Ngược lại, ngày nay tỷ lệ lao động bỏ việc cao hơn nhiều so với trước đại dịch.
Theo các chuyên gia, tỷ lệ bỏ việc dường như đang đạt đến đỉnh điểm, một dấu hiệu cho thấy thị trường lao động có thể hạ nhiệt một chút. Alex Domash, Nhà nghiên cứu tại Đại học Harvard, cho biết do độ trễ giữa tỷ lệ bỏ việc tăng cao và gia tăng tiền lương, nên ngay cả khi tỷ lệ bỏ việc chững lại, tiền lương vẫn có thể tiếp tục tăng thêm một thời gian.
“Nhưng ngay cả ở mức hiện tại, tăng trưởng tiền lương không phù hợp với mục tiêu lạm phát của Fed”, ông Domash nói. Vị chuyên gia cho rằng, mức tăng lương hiện tại ngụ ý rằng lạm phát duy trì trên 5%.
Tìm hiểu thêm: Các Doanh nghiệp Mỹ gặp khó khăn vì thiếu lao động và lạm phát
Nguồn: vnexpress theo WSJ